Các bệnh tự miễn (AD) như viêm khớp dạng thấp, viêm đa cơ, bệnh tuyến giáp tự miễn và bệnh vẩy nến, là nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật và tử vong khi có tuổi. Có rất ít phương pháp điều trị hiệu quả cho AD, tuy nhiên, một số nghiên cứu tiền lâm sàng đã gợi ý rằng các chất thực phẩm chức năng bổ sung, bao gồm vitamin D và axit béo omega-3 (hoặc n-3), có thể có những tác dụng hữu ích.
Trong một nghiên cứu mới được công bố trên BMJ, các nhà điều tra của Bệnh viện Brigham and Women's Hospital đã đánh giá xem việc bổ sung các loại vitamin D và/hoặc axit béo omega có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ AD hay không. Nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm các chất này trong Nghiên cứu Thử nghiệm vitamin D và Omega-3 (VITAL) quy mô lớn - nghiên cứu ngẫu nhiên theo dõi những người tham gia trong khoảng thời gian 5 năm. Các nhà điều tra nhận thấy những người dùng vitamin D, hoặc vitamin D và axit béo omega-3 có tỷ lệ AD thấp hơn đáng kể so với những người dùng giả dược.
Tiến sỹ Karen Costenbader, Khoa Thấp khớp, Viêm và Miễn dịch của Brigham, Tác giả cấp cao của nghiên cứu, cho biết: “Thật thú vị khi có thêm những kết quả mới và tích cực này đối với các loại vitamin và chất bổ sung không độc hại trong ngăn ngừa các bệnh tiềm ẩn nguy cơ mắc bệnh cao. Đây là bằng chứng trực tiếp đầu tiên mà chúng ta có được về việc bổ sung vitamin D hàng ngày có thể làm giảm tỷ lệ mắc AD và hiệu quả rõ rệt hơn sau hai năm. Chúng tôi mong muốn có thể cải thiện và mở rộng các phát hiện này và khuyến khích các tổ chức xem xét các kết quả và các dữ liệu mới nổi này khi phát triển các hướng dẫn trong tương lai trong phòng ngừa các bệnh tự miễn dịch ở người trung niên và người cao tuổi”.
“Giờ đây, khi bệnh nhân, đồng nghiệp hoặc bạn bè hỏi tôi về loại vitamin hoặc chất bổ sung nào nên dùng để giảm nguy cơ mắc bệnh tự miễn dịch, tôi có thể đưa ra khuyến nghị mới dựa trên bằng chứng cho những phụ nữ từ 55 tuổi trở lên và nam giới từ 50 tuổi trở lên. Tôi đề nghị họ dùng vitamin D 2000 IU và axit béo omega-3 (viên dầu cá) 1000 mg mỗi ngày - liều lượng tuân theo VITAL”, Costenbader nói.
VITAL là một nghiên cứu ngẫu nhiên, có đối chứng với giả dược được thực hiện trên 25.871 nam giới (50 tuổi trở lên) và phụ nữ (55 tuổi trở lên) trên khắp Hoa Kỳ, để điều tra xem xét liệu dùng thực phẩm chức năng bổ sung vitamin D3 (2000 IU) hàng ngày hoặc axit béo omega-3 (dầu cá Omacor, 1 gam) có thể làm giảm nguy cơ phát triển ung thư, bệnh tim và đột quỵ ở những người không có tiền sử mắc các bệnh này hay không. Những người tham gia sẽ ngẫu nhiên nhận vitamin D cùng với chất bổ sung axit béo omega-3; vitamin D với giả dược; axit béo omega-3 với giả dược; hoặc chỉ dùng giả dược. Các nhà điều tra cho biết, họ cũng sẽ xem xét tỷ lệ AD giữa những người tham gia, như một phần của nghiên cứu phụ trợ.
JoAnn Manson, đồng tác giả và Giám đốc của Nghiên cứu thử nghiệm VITAL tại Brigham, cho biết: “Với lợi ích của vitamin D và omega-3 trong việc giảm viêm, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến việc liệu chúng có thể bảo vệ chống lại các bệnh tự miễn dịch hay không”.
Những người tham gia trả lời bảng câu hỏi về các chẩn đoán mới của các bệnh, bao gồm viêm khớp dạng thấp, đau đa cơ, bệnh tuyến giáp tự miễn, bệnh vẩy nến và bệnh viêm ruột, có khoảng trống để điền tất cả các bệnh AD mới khởi phát khác. Các bác sĩ được đào tạo để có thể xem xét hồ sơ bệnh án của bệnh nhân cũng như xác nhận các chẩn đoán được báo cáo.
Jill Hahn, nghiên cứu sinh tại Brigham, cho biết: “Các bệnh tự miễn dịch thường gặp ở người lớn tuổi và ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe và tuổi thọ của nhiều người. Sẽ rất thú vị nếu chúng ta có thể không ngừng xác minh những tác dụng phòng ngừa tương tự ở những người trẻ hơn”.
Việc bổ sung axit béo omega-3 không làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc AD, nhưng nghiên cứu đã tìm thấy bằng chứng về tác dụng tăng lên sau thời gian dài bổ sung.
Nghiên cứu VITAL gồm một lượng lớn người tham gia với các mẫu nghiên cứu đa dạng, nhưng tất cả những người tham gia đều là lớn tuổi do đó kết quả có thể không khái quát được đối với những người trẻ tuổi trải qua AD sớm hơn trong đời. Thử nghiệm này cũng chỉ thử nghiệm một liều lượng và một công thức của mỗi chất bổ sung. Chính vì thế, các nhà nghiên cứu lưu ý rằng thời gian theo dõi lâu hơn sẽ có thể cho nhiều thông tin hơn để đánh giá liệu tác động của vitamin D có lâu dài hay không.