Theo một nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Surgery, các mô hình trước phẫu thuật và sau phẫu thuật có độ chính xác cao để dự đoán bệnh phù bạch huyết liên quan đến ung thư vú (BCRL).
Bác sĩ Danielle H. Rochlin từ Trung tâm Ung thư Memorial Sloan Kettering ở Thành phố New York, và các đồng nghiệp đã tiến hành một nghiên cứu tiên lượng liên quan đến những phụ nữ bị ung thư vú đã trải qua phẫu thuật hạch nách (ALND) hoặc sinh thiết hạch bạch huyết (SLNB) từ năm 1999 đến năm 2020 để tạo ra một mô hình dự đoán đơn giản và chính xác cho bệnh phù bạch huyết liên quan đến úng thư vú. Dữ liệu được đưa vào cho 1.882 bệnh nhân nữ (tuổi trung bình là 55,6 tuổi).
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng sau thời gian theo dõi trung bình là 3,9 năm, 11,6% bệnh nhân được chẩn đoán mắc BCRL. Tỷ lệ bệnh phù bạch huyết liên quan đến ung thư vú ở phụ nữ da đen cao hơn đáng kể so với phụ nữ châu Á, da trắng và các chủng tộc khác (lần lượt là 22,1% so với 12,5, 10,1 và 14,8%). Độ chính xác cho mô hình 1 (trước phẫu thuật), bao gồm tuổi, cân nặng, chiều cao, chủng tộc, tình trạng của những phụ nữ bị ung thư vú đã trải qua phẫu thuật hạch nách (ALND) hoặc sinh thiết hạch bạch huyết (SLNB), liệu pháp xạ trị và hóa trị liệu bất kỳ là 73,0%, độ nhạy là 76,6%, độ đặc hiệu là 72,5% và diện tích dưới đường cong đặc tính hoạt động của máy thu (AUC) là 0,78 ở mức cắt 0,18.
Đối với mô hình 2 (hậu phẫu), bao gồm tuổi, cân nặng, chủng tộc, tình trạng bệnh nhân bị ung thư vú đã trải qua phẫu thuật hạch nách hoặc sinh thiết hạch bạch huyết, bất kỳ hóa trị liệu nào và tình trạng sưng cánh tay do bệnh nhân báo cáo, độ chính xác là 81,1%, độ nhạy là 78,0%, độ đặc hiệu là 81,5% và diện tích dưới đường cong đặc tính hoạt động của máy thu là 0,86 ở ngưỡng 0,10. Diện tích dưới đường cong đặc tính hoạt động của máy thu cao hơn đã được nhìn thấy cho cả hai mô hình khi xác thực bên ngoài hoặc bên trong.
Các tác giả cho biết: “Bằng cách triển khai các mô hình dự đoán này theo định dạng hướng tới bệnh nhân trong chăm sóc lâm sàng, mục tiêu của chúng tôi là hướng bệnh nhân đến các biện pháp can thiệp trước và sau phẫu thuật phù hợp theo cách cân bằng giữa độ chính xác và tính thực tế”.
Nguồn:Từ trang web:vista.gov.vn của thông tin KH&CN quốc gia