Một loại cây được cho là loại rau phổ biến trong nhiều món ăn ở làng quê Việt Nam. Thậm chí, nhà nào ở quê cũng có ít nhất 1 bụi leo ở một góc ở hang rào quanh nhà - cây mơ lông. Cây mơ là một thứ cây leo, lá mọc đối, hình trứng hay mác dài, gốc lá tròn hay hình tim, cuống dài. Hoa tím nhạt, tràng hình ống mọc thành xim kép ở kẽ lá hoặc đầu cành. Quả hình cầu có đài tồn tại màu vàng nâu, bóng.

 

Dây mơ lông hay mơ tam thể có hai loại: Lá mơ tía (mặt dưới lá màu tía) và lá mơ xanh; tên khoa học là Paederia tomentosa và Paederia foetida. Lá cây có đặc điểm có nhiều lông, rất mịn. Tinh dầu mơ lông có tính hăng mùi bisunfua cacbon, có hai chất ancaloit paderin và một tan trong ête kết tinh ở dạng kim nhỏ, một chất vô định hình, hơi tan trong rượu amylic, clorofoc và benzen. 

Cây mơ lông có tính bình, mát, vị ngọt và đắng nhẹ. Bộ phận được dùng chủ yếu là lá tươi. Trong Đông y, lá mơ lông có tác dụng khu phong, tiêu thũng, giải độc, lợi thấp, giảm ho, kích thích lưu thông máu, giảm đau và tiêu thực. Cây được dùng hỗ trợ điều trị các chứng: Đau dạ dày, co thắt túi mật, suy dinh dưỡng ở trẻ em, tê đau do tổn thương bên ngoài, ăn lâu tiêu, viêm gan vàng da, bệnh kiết lỵ do amip, ho gà, phong tê thấp, viêm ruột, lao phổi, gân cốt đau nhức và nhiễm độc phosphor…

Trong dân gian, lá mơ có công dụng thanh nhiệt, sát khuẩn, trị các bệnh về tiêu hóa rất tốt. Liều dùng 20 - 30g/ngày, có thể dùng đến 50g vẫn an toàn. Nếu ăn ít, với tính cách như rau thơm thì lá mơ thanh nhiệt và chống dị ứng.

Các nhà khoa học đã tìm ra một loại alkaloid trong lá mơ lông có tên gọi paederin và tinh dầu sulfur dimethyl disulphide. Đây là các hoạt chất hoạt động tương tự như thuốc kháng sinh và kháng viêm. Đặc biệt, lá mơ lông có tác dụng mạnh mẽ đối với ký sinh trùng đường ruột như lỵ, giun đũa, giun kim, trực khuẩn...Với đặc tính riêng của lá mơ lông, xin giới thiệu một số bài thuốc chữa bệnh của loại cây này:

- Trị kiết lị do Amip: 30g lá mơ thái chỉ, trộn với lòng đở trứng gà. Gói vào lá chuối rồi nướng chín. Ngày ăn 2 lần, liên tục 5 -8 ngày. Sau đó xét nghiệm phân nếu còn trứng amip ăn thêm một liệu trình nữa.

Trị kiết lị giai đoạn khởi phát: Với tình trạng này, người bệnh đi đại tiện nhiều lần, phân lẫn máu và chất nhầy. Nếu có kèm sốt thì lấy một nắm lá mơ thái nhỏ, đập một quả trứng gà, trộn đều. Bọc hỗn hợp này bằng lá chuối, đem nướng chín. Ăn ngày ba lần, liên tục vài ngày sẽ khỏi.

Trị lị do đại tràng tích nhiệt: Lá mơ 20g, lá phèn đen 20g, rửa sạch, dội qua nước sôi để ráo, giã nát, vắt lấy nước cốt uống 2 - 3 lần.

Trị chứng sôi bụng, ăn khó tiêu: Lấy một nắm lá mơ tươi, rửa sạch, ăn kèm với cơm như rau hoặc giã nát lấy nước uống. Ăn, uống liền trong 2 - 3 ngày sẽ có kết quả.

Trị tiêu chảy do nóng: Khi bị tiêu chảy do nhiệt với các biểu hiện phân khẳm, nước tiểu vàng, bụng quặn đau, đầy hơi, khát nước nhiều, hậu môn nóng rát, dùng 16g lá mơ, 8g nụ sim sắc với 500ml nước lấy 200ml. Chia uống hai lần trong ngày.

Trị đau dạ dày: Lấy 20 - 30g lá mơ rửa sạch, giã nát lấy nước uống mỗi ngày một lần. Kiên trì dùng sẽ có hiệu quả chữa đau dạ dày rất tốt.

Trị giun kim và giun đũa: Lá mơ lông giã nhỏ, cho tí muối ăn sống hoặc vắt lấy nước uống, uống liền 3 buổi sáng vào lúc đói thì giun ra. Với giun kim: lá mơ lông 30g, chế vào 50ml nước chín, vắt lấy nước cốt bơm thụt vào hậu môn, giữ lại khoảng 20 phút vào lúc 19 - 20 giờ, trước khi đi ngủ, giun sẽ bò ra.

Trị trẻ nhỏ bị chứng cam tích (suy dinh dưỡng): Dùng rễ mơ lông khô 15 - 20g, dạ dày heo 1 cái thái vụn. Nấu với 1 lít nước còn 2 chén, bỏ bã, lấy nước, chia 2 lần uống.

Trị chứng bí tiểu tiện: nếu mắc bệnh sỏi thận dẫn đến bí tiểu tiện lấy lá mơ sắc uống ngày 2 - 3 lần.

Trị phong tê thấp (đau nhức xương khớp, luôn có cảm giác nặng nề, bứt rứt): Rễ hoặc dây mơ lông 30 - 50g, sắc xong pha vào ít rượu, uống lúc thuốc còn ấm. Hoặc lấy cả lá và dây, cắt nhỏ, mỗi đoạn chừng 1 - 2cm, sao vàng. Mỗi lần dùng 50g, sắc với 200ml, còn 100ml, chia đều, uống 3 lần trong ngày, liên tục 10 - 15 ngày.

Nhiễm nấm ngoài da, bệnh giời leo, chàm da, eczema: Dùng toàn thân cây mơ lông rửa sạch, nghiền nát, lấy nước cốt thoa vào chỗ ngứa 3 - 4 lần trong ngày.