Nghiên cứu mới của Trường Đại học Y Washington, St. Louis trình bày cuộc điều tra toàn diện nhất cho đến nay về các vấn đề thần kinh lâu dài liên quan tới COVID-19. Kết quả theo dõi hơn 150.000 bệnh nhân COVID trong 12 tháng cho thấy nhiễm trùng làm tăng 42% nguy cơ mắc một số chứng rối loạn não.

Ziyad Al-Aly, nhà dịch tễ học tại Trường Đại học Washington, đã làm việc với Bộ Cựu chiến binh Hoa Kỳ kể từ khi đại dịch bắt đầu. Nghiên cứu sử dụng cơ sở dữ liệu chăm sóc sức khỏe khổng lồ để thu thập những hiểu biết mới về ảnh hưởng lâu dài của COVID-19.

Trước đó, vào năm 2022, Al-Aly và các đồng nghiệp đã công bố một số nghiên cứu báo cáo sự gia tăng các vấn đề tim mạch và rối loạn sức khỏe tâm thần ở bệnh nhân COVID-19 kéo dài đến 12 tháng sau lần nhiễm trùng đầu tiên. Nghiên cứu mới này, được công bố trên Tạp chí Nature Medicine, xem xét một loạt các vấn đề thần kinh sau nhiễm trùng nhẹ và nặng trong vòng 1 năm sau khi nhiễm trùng.

Al-Aly giải thích: “Nghiên cứu của chúng tôi cung cấp một đánh giá toàn diện về hậu quả thần kinh lâu dài của COVID-19. Các nghiên cứu trước đây đã kiểm tra một tập hợp quy mô hẹp hơn về các kết quả liên quan đến thần kinh ở bệnh nhân, hầu hết là ở những bệnh nhân nhập viện. Chúng tôi đã đánh giá 44 rối loạn não và các rối loạn thần kinh khác ở cả bệnh nhân không nhập viện và nhập viện, bao gồm cả những người được đưa vào phòng chăm sóc đặc biệt”.

Cuộc điều tra bao gồm các biến cố mạch máu não như đột quỵ, rối loạn từng đợt gồm chứng đau nửa đầu và co giật, và các tình trạng nhận thức như bệnh Alzheimer. Nhìn chung, các phát hiện cho thấy những người sống sót sau COVID có nguy cơ gặp phải một số vấn đề thần kinh trong năm đó sau khi bị nhiễm trùng cao hơn 42% so với nhóm đối chứng không bị nhiễm.

Cụ thể hơn, nghiên cứu cho biết những người sống sót sau COVID phải đối mặt với nguy cơ mắc các vấn đề về trí nhớ tăng 77%, nguy cơ đột quỵ tăng 50%, tăng 80% nguy cơ co giật và tăng 30% nguy cơ mắc các vấn đề về mắt. Từ một số nghiên cứu trước đây, các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy sự gia tăng nhẹ chẩn đoán bệnh Alzheimer ở ​​bệnh nhân COVID so với nhóm đối chứng không bị nhiễm.

Al-Aly nhấn mạnh: “Không dám chắc rằng người bị mắc COVID-19 sẽ thoát khỏi bệnh Alzheimer. Bệnh Alzheimer phải mất nhiều năm để biểu hiện. Nhưng điều chúng tôi nghi ngờ đang xảy ra là những người có khuynh hướng mắc bệnh Alzheimer có thể sẽ bị COVID đẩy xuống bờ vực, nghĩa là những người này đang trên đà phát triển bệnh nhanh hơn. Nó hiếm nhưng đáng lưu tâm”.

Có một số lưu ý quan trọng cần chú ý đối với những phát hiện này. Nhóm tham gia vào trong nghiên cứu đã già, có độ tuổi trung bình là 61. Và do quá trình theo dõi kéo dài 12 tháng nên hầu hết các ca nhiễm ban đầu này đều ở những đối tượng chưa được tiêm chủng. Vì vậy, những nguy cơ gia tăng này có thể được giảm bớt ở những nhóm dân số trẻ hơn và / hoặc đã được tiêm chủng. Tuy nhiên, Al-Aly lưu ý rằng một số nguy cơ mắc các bệnh thần kinh cụ thể cao hơn ở những người trẻ tuổi.

“Nguy cơ về rối loạn trí nhớ và nhận thức, rối loạn cảm giác và các rối loạn bao gồm Guillain – Barré và viêm não hoặc bệnh não gan ở những người trẻ tuổi… Những ảnh hưởng của những rối loạn này đối với cuộc sống của những người trẻ tuổi là rất sâu sắc và không thể phóng đại.” Al-Aly nói.

Nhìn chung, nghiên cứu đã tìm thấy được thêm 7 trường hợp mắc vấn đề thần kinh bất kỳ trong mỗi 100 trường hợp COVID.

Do vậy, trong điều kiện thực tế, đây là những con số nhỏ và thậm chí có khả năng nhỏ hơn nếu tuổi tác và việc tiêm chủng tạo ra bất kỳ sự khác biệt nào. Nhưng các nhà nghiên cứu đã làm rõ trong nghiên cứu rằng vì đại dịch này quá lan rộng, ngay cả những con số tuyệt đối nhỏ cũng có thể tạo ra một số lượng lớn những người bị ảnh hưởng.

“Với quy mô khổng lồ của đại dịch, và mặc dù con số tuyệt đối được báo cáo trong nghiên cứu này là nhỏ, những con số này có thể chuyển thành một số lượng lớn các cá nhân bị ảnh hưởng trên khắp thế giới - và điều này có thể sẽ góp phần làm gia tăng gánh nặng của các bệnh thần kinh”, các nhà nghiên cứu báo cáo trong nghiên cứu.

Theo các nhà nghiên cứu, nếu các con số trong nghiên cứu này được ngoại suy với số lượng các ca COVID được báo cáo ở Mỹ, thì hơn sáu triệu người sẽ gặp phải một số loại vấn đề thần kinh trong năm sau khi nhiễm bệnh. Ngay cả khi cắt giảm một nửa con số đó một cách thận trọng vẫn khiến hàng triệu người phải đối mặt với những thách thức về não bộ sau COVID.