Các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng những người mắc chứng ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn có nguy cơ mắc bệnh tim mạch cao hơn do lượng oxy trong máu giảm, phần lớn được giải thích là do hơi thở bị gián đoạn. Ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn từ lâu đã liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc nhiều vấn đề về tim mạch, bao gồm đau tim; đột quỵ; tử vong, nhưng những phát hiện từ nghiên cứu này, được công bố trên Tạp chí American Journal of Respiratory and Critical Care Medicine, cho thấy cơ chế chịu trách nhiệm chính cho mối liên hệ này.

 

Tác giả nghiên cứu Tiến sĩ Ali Azarbarzin cho biết: “Những phát hiện này sẽ giúp mô tả rõ hơn các phiên bản có nguy cơ cao của chứng ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn. Chúng tôi nghĩ rằng việc bao gồm một phiên bản nguy cơ cao hơn của chứng ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn trong một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên sẽ cho thấy rằng việc điều trị chứng ngưng thở khi ngủ có thể giúp ngăn ngừa các hậu quả về tim mạch trong tương lai”.

Nhóm nghiên cứu đã xem xét dữ liệu từ hơn 4.500 người trung niên trở lên tham gia Nghiên cứu về Gãy xương do Loãng xương ở Nam giới (MrOS) và Nghiên cứu Đa sắc tộc về Xơ vữa động mạch (MESA); và tìm cách xác định các đặc điểm của chứng ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn, để giải thích tại sao một số người có nhiều khả năng mắc bệnh tim mạch hoặc tử vong hơn những người khác.

Một số đặc điểm sinh lý của chứng ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn được đánh giá là: giảm oxy không khí thở vào trầm trọng (hypoxic burden), tức là giảm nồng độ oxy trong máu khi ngủ; thở khó (ventilatory burden), đó là sự gián đoạn hô hấp do tắc nghẽn đường thở; và kích thích vào ban đêm, đó là khi một người đột nhiên thức dậy sau giấc ngủ do hơi thở bị gián đoạn và điều đó có thể khiến huyết áp hoặc nhịp tim của họ tăng lên. Mặc dù mức độ nghiêm trọng của chứng ngưng thở khi ngủ được định nghĩa là số lần đường thở bị tắc nghẽn trong 1h ngủ, nhưng nghiên cứu này đã tìm cách mô tả rõ hơn cơ chế cơ bản của chứng ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn và xác định những cơ chế dự đoán mạnh mẽ nguy cơ tim mạch gia tăng.

Thông qua nghiên cứu MrOS, 2.627 nam giới, với độ tuổi trung bình là 76, được theo dõi trong khoảng 9 đến 12 năm. Nghiên cứu MESA tổng hợp dữ liệu từ 1.973 đàn ông và phụ nữ, với độ tuổi trung bình là 67, được theo dõi trong khoảng 7 năm. Trong thời gian này, những người tham gia đã hoàn thành kiểm tra y tế, đánh giá giấc ngủ và chia sẻ thông tin về sức khỏe của họ. Khoảng 110 người tham gia MESA và 382 ở MrOS đã trải qua biến cố tim mạch nguyên phát.

Đối với mọi biện pháp giảm nồng độ oxy trong máu quan sát được, hoặc giảm oxy không khí thở vào trầm trọng, một người trong MESA có nguy cơ mắc bệnh tim mạch nguyên phát tăng 45%. Trong MrOS, rủi ro gia tăng quan sát được là 13%. Tắc nghẽn đường thở, được đo bằng cách đóng hoàn toàn hoặc một phần đường thở, chiếm 38% rủi ro quan sát được trong MESA và 12% trong MrOS.

Những phát hiện tương tự để dự đoán tử vong sớm dựa trên việc giảm oxy không khí thở vào trầm trọng hoặc thở khó cũng được quan sát thấy. Thức dậy đột ngột không liên quan đến kết quả tim mạch trong MESA, nhưng có liên quan đến tử vong do tim mạch trong MrOS. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng giảm oxy không khí thở vào trầm trọng chủ yếu là do đường thở bị tắc nghẽn nghiêm trọng chứ không phải các yếu tố khác, chẳng hạn như béo bụng hoặc giảm chức năng phổi.

Tác giả nghiên cứu Gonzalo Labarca cho biết: “Đó là điều khiến số liệu này trở nên cụ thể đối với chứng ngưng thở khi ngủ. Các kết nối ít được giải thích bởi béo phì hoặc yếu tố khác”.

Các tác giả lưu ý rằng những phát hiện này có khả năng thay đổi cách đánh giá chứng ngưng thở khi ngủ nhưng cần được xác nhận thông qua các nghiên cứu trong tương lai. Những nghiên cứu trước đây đã ước tính rằng gần 425 triệu người trưởng thành trên toàn thế giới và khoảng 54 triệu người ở Hoa Kỳ mắc chứng ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn và do đó có nguy cơ mắc bệnh tim mạch cao hơn, nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới.

Nguồn:từ trang web:vista.gov.vn của cục thông tin KH&CN Quốc gia