Trong thời gian từ năm 2019 đến năm 2023, TS. Phùng Văn Trung và các cộng sự tại Trung tâm Nghiên cứu và Chuyển giao Công nghệ (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu thành phần hóa học có hoạt tính kháng viêm của một số loài thuộc chi Hedera ở Việt Nam”.
Đề tài hướng đến thực hiện các mục tiêu sau: sàng lọc hoạt tính kháng viêm các cây thuộc chi Hedera ở những vùng sinh thái khác nhau của Việt Nam; phân lập và xác định cấu trúc của các hợp chất chuyển hóa thứ cấp ở các loài Hedera ở Việt Nam, như helix, nepalensis - để tìm kiếm chất mới, chất có hoạt tính; và thử nghiệm các hoạt tính sinh học khác như kháng khuẩn, bảo vệ gan, gây độc tế bào…
Sau bốn năm nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đã thu được các kết quả như sau:
- Đã thu thập 20 mẫu Hedera helix ở khu vực Đà Lạt, Lâm Đồng và Tây Bắc. Xác định tên khoa học và thiết kế tạo mẫu cao chiết và tiến hành phân tích thành phần hóa học bằng khối phổ phân giải cao. Nhóm nghiên cứu đã định danh được 46 hợp chất trong đó có 24 triterpene saponin bằng phương pháp UHPLC-QTOFMS/MS. Có 4 cấu trúc triterpene saponin được xác định và tra cứu là chất mới và tiến hành sắc ký phân đoạn chứa 2 chất mới để thử nghiệm một số hoạt tính.
- Đã thu thập 18 mẫu Hedera nepalensis ở phía Bắc (Lào Cai, Hà Giang, Lạng Sơn, Lai Châu) xác định tên khoa học và thiết kế tạo mẫu cao chiết và tiến hành phân tích thành phần hóa học bằng khối phổ phân giải cao. Trong một nghiên cứu đã được công bố, nhóm nghiên cứu đã định danh được 45 chất gồm 21 triterpene saponins và 24 hợp chất khác. Có 8 cấu trúc triterpene saponin mới được tra cứu trên SciFinder, đã tiến hành sắc ký phân đoạn chứa các chất mới để thử nghiệm một số hoạt tính. Nhằm so sánh thành phần hóa học của loài H. nepalensis từ các vùng khác nhau, nhóm nghiên cứu đã tiến hành phân tích và xác định được 5 flavonoids và 6 phenolic acids trong tất cả các mẫu. Bên cạnh đó, trong một nghiên cứu khác về các hợp chất saponin của các mẫu H. nepalensis, có 42 hợp chất saponin đã được xác định, trong đó có sáu cấu trúc lần đầu tiên được công bố. Kết quả cho thấy thành phần saponin trong các mẫu có sự khác biệt.
- Sàng lọc tìm kiếm thành phần có hoạt tính kháng viêm và thử nghiệm một số hoạt tính sinh học khác như kháng khuẩn, bảo vệ gan, gây độc tế bào… Hoạt tính kháng khuẩn của các phân đoạn và các hợp chất phân lập từ loài Hedera helix đã được thực hiện trên 2 chủng vi khuẩn là Staphylococcus aureus và Pseudomonas aeruginosa. Kết quả là hederacoside B, C và D có hoạt tính kháng khuẩn chống lại Staphylococcus aureus và Pseudomonas aeruginosa thấp hơn so với các phân đoạn, cho thấy các hợp chất có hoạt tính không phải là các saponin này. Kết quả tương tự khi đánh giá hoạt tính của α-hederin chống lại Staphylococcus aureus, nhưng khi nghiên cứu trên Pseudomonas aeruginosa, α-hederin cho thấy hoạt tính cao hơn một chút so với ba saponin còn lại và tương đương với phân đoạn được sử dụng để phân lập nó (MC2b). Vì vậy, có thể suy ra rằng α-hederin là hợp chất có hoạt tính chống lại Pseudomonas aeruginosa được phân lập từ MC2b. Tuy nhiên, kết quả này vẫn còn rất thấp.
- Phân lập và xác định cấu trúc của các hợp chất chuyển hóa thứ cấp từ một số loài Hedera: Từ cao methanol (500.0 g) tiến hành sắc kí cột, sắc kí lớp mỏng đã cô lập được phân đoạn MA (15.0 g), MB (158.0 g), MC (210.0 g). Từ phân đoạn MB (158.0 gam) tiến hành sắc kí cột, sắc kí lớp mỏng đã cô lập được 1 hợp chất HH-01 (2.16 g). Từ phân đoạn MC (210.0 gam) tiến hành sắc kí cột, sắc kí lớp mỏng đã cô lập được 3 hợp chất HH-02 (300.0 mg), HH-06 (15.0 mg) và HH-07 (50.0 mg). Ba hợp chất a-hederin (HH-01), hederasaponin C (HH-02), hederasaponin B (HH-07) có cấu trúc phù hợp với bảng phân tích thành phần hóa học cây thường xuân.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 23331/2023) tại Cục thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
Nguồn: N.P.D (NASATI)