Ung thư vú xuất hiện trong vòng 5 năm sau khi sinh có nhiều khả năng lây lan và gây tử vong. Một nghiên cứu mới cho thấy việc sinh con một mình trong thời gian gần đây là một yếu tố nguy cơ độc lập đối với sự tiến triển của ung thư vú.

 

Phát hiện cho thấy rằng các hướng dẫn lâm sàng hiện tại, không tính đến tình trạng sau sinh, ít có khả năng dự đoán chính xác nguy cơ tái phát ung thư và hướng dẫn các chiến lược điều trị tối ưu ở bệnh nhân trẻ tuổi.

Tác giả cao cấp Giáo sư sinh học Tế bào Pepper Schedin, đến từ Trường Y OHSU cho biết: "Chẩn đoán sau sinh có thể chuyển những phụ nữ có tiên lượng tốt vào nhóm có nguy cơ cao”.

Các nhà nghiên cứu đã có thể xác nhận mối liên hệ giữa việc mang thai và kết quả ung thư vú bằng cách sử dụng Cơ sở dữ liệu dân số Utah mở rộng. Đây là cơ sở dữ liệu kết hợp hồ sơ sinh và tử trên toàn tiểu bang, dữ liệu Cơ quan đăng ký ung thư Utah và hồ sơ bệnh nhân từ hồ sơ bệnh nhân nội trú và cấp cứu trên toàn tiểu bang.

Nghiên cứu được thực hiện ở 2.970 người được chẩn đoán ung thư vú ở độ tuổi 45 trở xuống, trong đó có 860 người chưa từng sinh con. Những người đã sinh con được phân loại dựa trên thời gian kể từ lần sinh gần đây nhất: được chẩn đoán trong vòng ít hơn 5 năm, từ năm đến dưới 10 năm, hoặc 10 năm hoặc lâu hơn kể từ khi sinh con.

Nguy cơ di căn; ung thư lan đến các cơ quan khác; cao hơn 50% ở những người được chẩn đoán trong vòng 5 năm sau khi sinh con, cũng như nguy cơ tử vong do ung thư vú, so với những người chưa sinh con. Và những nguy cơ gia tăng về di căn và tử vong này không phụ thuộc vào giai đoạn khối u hoặc tình trạng thụ thể estrogen; các yếu tố được sử dụng hiện nay để đánh giá mức độ nguy hiểm của ung thư và quyết định phương pháp điều trị nào phù hợp.

Ung thư vú không có thụ thể estrogen, được gọi là khối u âm tính với ER, thường được coi là nguy hiểm hơn khối u dương tính với ER. Nhưng trong nghiên cứu, tỷ lệ phụ nữ có tiến triển ở khối u ER âm tính và ER dương tính là như nhau. Yếu tố nguy cơ chính cho sự tiến triển thành di căn không phải là tình trạng ER, mà là chẩn đoán ung thư vú trong vòng 5 năm sau khi sinh con.

Ở nghiên cứu trước đó, Tiến sĩ Pepper Schedin và các đồng nghiệp đã phát hiện ra những thay đổi ở vú sau khi sinh con có thể làm thay đổi sự phát triển của ung thư vú như thế nào. Vào cuối thời kỳ cho con bú, hầu hết các tế bào tiết sữa đều trải qua quá trình chết tế bào được gọi là bước tiến hóa. Đây là một quá trình viêm tương tự như quá trình chữa lành vết thương, và trong các nghiên cứu sử dụng mô hình chuột, phòng thí nghiệm của Tiến sĩ Pepper Schedin đã cho thấy cách thức tiến hóa tạo ra một môi trường thúc đẩy khối u. Sử dụng các mẫu từ bệnh nhân ung thư vú, họ đã tìm thấy sự tiến hóa để lại dấu ấn lâu dài trong mô hình hoạt động của gen trong mô vú có thể giúp các khối u di căn.

Và các nghiên cứu trên chuột cho thấy khi gan phục hồi sau nhu cầu của quá trình mang thai và cho con bú, nó sẽ dễ dàng thoát khỏi các tế bào ung thư bám rễ và phát triển. Quá trình tương tự cũng xảy ra ở gan phụ nữ sau khi sinh con. Nghiên cứu mới cho thấy tỷ lệ di căn đến gan cao ở những người được chẩn đoán trong vòng 5 năm sau khi sinh con.

Tiến sĩ Pepper Schedin giải thích: "Sự xâm nhập khiến các tế bào khối u sớm thoát ra khỏi vú. Và những tế bào ung thư đó tìm thấy gan là vật chủ tuyệt vời để hình thành các khối u di căn”. Việc xem xét tình trạng hậu sản sẽ giúp bác sĩ lâm sàng đưa ra dự đoán chính xác hơn về mức độ phát triển của ung thư vú và hướng dẫn các quyết định điều trị, chẳng hạn như sự cần thiết của hóa trị sau phẫu thuật loại bỏ khối u.