Tình trạng nuôi tôm thâm canh với số lượng lớn, mật độ cao ở nước ta đã dẫn đến sự xuất hiện và lây lan của nhiều bệnh dịch nguy hiểm, nhất là hội chứng đốm trắng và hội chứng gan tụy cấp. Việc sử dụng kháng sinh và hóa chất để phòng và trị dịch bệnh ở ao nuôi tôm đã tác động tiêu cực đến chất lượng tôm và gây ô nhiễm môi trường. Nhằm hạn chế vấn đề trên, các nhà kho ahojc tại Trung tâm Công nghệ sinh học TP. Hồ Chí Minh đã tiến hành khảo sát, nghiên cứu và tìm ra một số loại cao chiết từ thảo dược của Việt Nam có thể phòng và trị bệnh đốm trắng và gan tụy cấp trên tôm thẻ chân trắng.

Để tìm ra một số loại thảo dược bản địa có hoạt tính kháng vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus pVPA3-1 (V. parahaemolyticus) gây bệnh hoại tử gan tụy cấp tính và kháng virus White spot syndrome (WSSV) gây bệnh đốm trắng trên tôm thẻ chân trắng, nhóm nghiên cứu tại Trung tâm Công nghệ sinh học TP. Hồ Chí Minh đã thu thập và chiết cao của 32 loài thảo dược thuộc 4 nhóm cây (cây ăn quả, cây thân cỏ, cây ngập mặn và cây thuốc/gia vị) có hoạt tính kháng khuẩn và kháng virus.

Các tác giả đã tiến hành đánh giá hoạt tính in vitro của các loài cây này đối với vi khuẩn gây bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm bằng phương pháp khuếch tán đĩa thạch và khảo sát nồng độ ức chế tối thiểu, nồng độ diệt khuẩn tối thiểu. Kết quả là 21 trong tổng số 32 thảo dược có hoạt tính ức chế khá tốt trên vi khuẩn V. parahaemolyticus, và 15 loại cao chiết các cây có tiềm năng kháng virus WSSV.

Sau đó, nhóm nghiên cứu đã đánh giá in vitro hoạt tính kháng virus WSSV và V. parahaemolyticus của cao thảo dược bằng phương pháp tiêm trực tiếp vào tôm. Kết quả, 8 loại cao (đưng, dà vôi, ổi, mấm trắng, cỏ mực, cóc trắng, diệp hạ châu, đước) có khả năng kháng mạnh với virus WSSV, trong khi các cao khác kháng yếu hoặc không kháng. Đối với vi khuẩn V. parahaemolyticus, có 6 loại (diệp hạ châu, sim, bạch chỉ, riềng, chanh, trầu không).

Thức ăn có trộn cao thảo dược được thử nghiệm cho tôm ăn liên tục trong 14 ngày. Sau đó, virus và vi khuẩn được cảm nhiễm vào tôm (bằng phương pháp ngâm tôm trực tiếp vào các nồng độ virus, vi khuẩn pha loãng trong 6 giờ để tạo mô hình tôm bệnh gần giống nhất với điều kiện nuôi tự nhiên. Kết quả là hoạt tính kháng V. parahaemoliticus của cao bạch chỉ cho kết quả tốt nhất và với virus WSSV là cao cỏ mực (với tỷ lệ sống trên 50%).

Kết quả nghiên cứu tạo tiền đề để sản xuất các chế phẩm từ thảo dược phòng và trị bệnh cho tôm thẻ chân trắng nhằm hạn chế sử dụng thuốc kháng sinh.

Nguồn:Từ trang web:vista.gov.vn.của cục thông tin KH&CN quốc gia