Xuất phát điểm là những nhà khoa học nghiên cứu cơ bản, TS Nguyễn Thế Anh và TS Đỗ Hoàng Tùng (Viện Vật lý – Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam) đã bước ra khỏi vùng an toàn của mình, làm quen với các yếu tố tài chính, quản lý, thị trường, để trở thành những người điều hành start-up giàu tiềm năng trong lĩnh vực y tế.
Ngành khoa học còn non trẻ
Vào năm 2003, khi đang công tác tại Viện Vật lý (Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam), TS Đỗ Hoàng Tùng đã đọc được những nghiên cứu quốc tế về plasma – trạng thái thứ 4 của vật chất (ngoài 3 thể thường gặp là rắn, lỏng và khí). Lúc bấy giờ, trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu nhằm ứng dụng những tiềm năng của plasma trong lĩnh vực y tế như làm lành vết thương hở, điều trị nha khoa; thế nhưng ở Việt Nam những thông tin về plasma vẫn còn rất hạn chế. Với mong muốn hiểu rõ hơn về ngành khoa học mới mẻ này, cũng như tìm hiểu những ứng dụng của nó trong các lĩnh vực khác nhau, TS Tùng đã quyết định ghi danh vào Đại học Greifswald (Đức) – trung tâm hàng đầu thế giới về công nghệ plasma.
Từ những kiến thức được thụ hưởng ở Đức, TS. Đỗ Hoàng Tùng đã ấp ủ ý tưởng thiết kế một chiếc máy phát tia plasma mạnh của riêng mình. Năm 2011, trở về Việt Nam, anh đã chia sẻ mong muốn này với người bạn thân cũng làm việc ở Viện Hàn lâm cùng mình – TS Nguyễn Thế Anh. Thời điểm đó, tia plasma lạnh đã được một số nước tiên tiến phát triển thành công trong điều trị vết thương hở, nhưng họ vẫn chưa phát triển thành thiết bị điều trị. Ý tưởng của TS Tùng, nếu thành công, sẽ mang lại giá trị vô cùng lớn đối với nền y học Việt Nam.
Thế nhưng, vì plasma vẫn còn là một ngành khoa học non trẻ ở Việt Nam, “Khi Tùng về nước, vẫn chưa có ai trong Viện Vật lý nghiên cứu sâu về plasma, vì vậy cơ sở vật chất hầu như chẳng có gì” – anh Thế Anh nhớ lại. “Chúng tôi phải tự kiếm đồ đạc, tự đi ra chợ Giời mua đồ về làm, rồi tự cưa đẽo như những công nhân kim khí để tạo ra được những chiếc máy đầu tiên.”
Cuối cùng, nhờ có đề tài từ Quỹ Phát triển khoa học và Công nghệ Quốc gia (Nafosted), TS. Đỗ Hoàng Tùng đã có cơ hội thực hiện những nghiên cứu bài bản của mình.
Lúc đó, câu hỏi lớn nhất đặt ra cho hai người chính là thiết kế đầu phát tia plasma sao cho hạ được nhiệt độ nguồn plasma xuống nhiệt độ phòng để an toàn khi tiếp xúc trên da và tạo ra tia plasma đủ dài để đi vào các ngóc ngách của vết thương. Để giải quyết vấn đề này, hai nhà nghiên cứu đã đề xuất thiết kế buồng plasma có dạng hình phễu dẹt với tiết diện của phễu nhỏ nhất ở nơi có khoảng cách giữa hai điện, sau đó mở rộng ra cùng với độ mở của hai điện cực. Tại vị trí có khoảng cách giữa hai điện cực nhỏ nhất, plasma được đẩy đi với vận tốc dòng khí lớn khiến cho nhiệt độ plasma không tăng lên quá cao.
Sau khi tìm cách hạ nhiệt độ thành công, tia plasma vẫn chưa thể sử dụng được do có hình cung tròn không thích hợp để đi vào từng ngóc ngách vết thương nên chưa thích hợp để ứng dụng. Hai nhà nghiên cứu lại bắt tay tìm cách khắc phục. Hai người cải tiến thiết kế buồng plasma có hai gờ dẫn hướng, bố trí điện cực đặc thù và mũ chụp để điều chỉnh dáng tia plasma. Bằng cách này, tia plasma bị bẻ cong dễ dàng hơn và có thể thay đổi kích thước theo ý muốn người dùng.
Mở ra những hướng ứng dụng mới
Trên nền tảng của những kết quả đã đạt được, TS Đỗ Hoàng Tùng và TS Nguyễn Thế Anh muốn đi sâu hơn về công nghệ Plasma cũng như huy động nguồn lực cho các nghiên cứu liên quan đến plasma. Do đó họ quyết định thành lập một viện nghiên cứu độc lập cho lĩnh vực Plasma mang tên ARIPT. Mục tiêu hoạt động của ARIPT bao gồm thực hiện các hoạt động nghiên cứu, hợp tác nghiên cứu trong lĩnh vực vật lý plasma và chất lỏng; và tư vấn chuyển giao công nghệ. “Plasma còn có thể giải quyết những vấn đề trong các lĩnh vực khác như khoa học vật liệu, môi trường, nông nghiệp… mà lâu nay Việt Nam vẫn chưa nghiên cứu, chứ không chỉ dừng lại ở y tế” – TS Thế Anh cho biết.
Tuy nhiên, theo TS Nguyễn Thế Anh, vấn đề mà các anh cần phải làm tốt hơn nữa “nếu muốn tạo ra những thiết bị ứng dụng plasma khác. Công nghiệp phụ trợ của Việt Nam vẫn chưa chuyên nghiệp, các sản phẩm vẫn chưa được trau chuốt, tinh vi. Có nhiều điểm cần chú ý như độ bền của cái lẫy, hoặc bánh xe không gây ra tiếng ồn khi đẩy ra đẩy vào phòng bệnh.
Ngoài ra, chúng tôi cần phải lấy ý kiến và khảo sát khách hàng để có được cái nhìn nhiều chiều. Ví dụ, với trường hợp của PlasmaMed, chỉ cần hỏi khách hàng rằng thiết bị có đi lọt hai cái giường bệnh không, di chuyển nó có tiện không, tay cần điều trị có ổn không… tất cả những thông tin đó sẽ giúp công ty cải tiến máy tốt hơn. Mình không thể tự nghĩ ra cách để tối ưu hóa phù hợp với nhu cầu của tất cả mọi người, cần dựa vào nhu cầu của người dùng khi sử dụng các thiết bị đang có sẵn.”
Trước mắt, khi vẫn chưa giải quyết được bài toán về thiết bị phụ trợ, hai nhà khoa học vẫn đang nghiên cứu cải tiến chiếc máy để phù hợp với từng chuyên khoa. “Đối với các loại vết thương khác nhau, thì máy phải cấu hình khác nhau. Ví dụ, chiếc máy sử dụng cho tai – mũi – họng thì đầu phát tia phải nhỏ.” Từ một phiên bản đại trà đang có, “chúng tôi sẽ tạo ra những phiên bản khác nhau”. Và đây sẽ là nền tảng để các anh tiếp tục nghiên cứu, mở ra những hướng ứng dụng mới trong thời gian tới.
Nguồn: Báo Khoa học và Phát triển, ngày 13/6/2020.