Đại dịch Covid-19 và các biện pháp ngăn chặn lây lan đã dẫn đến việc đóng cửa tạm thời hoặc vĩnh viễn của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN). Trong nhiều trường hợp, đây là kết quả của các biện pháp ngăn chặn, nơi các doanh nghiệp không thiết yếu buộc phải đóng cửa trong thời gian phong tỏa. Tuy nhiên, trong các trường hợp khác, chính những thách thức trong chuỗi cung ứng và bán hàng đã khiến các DNVVN phải đóng cửa hoạt động kinh doanh của họ, ít nhất là tạm thời.

 

Dữ liệu từ các quốc gia được OECD lựa chọn cho thấy tỷ lệ đóng cửa của các DNVVN thế giới tăng mạnh trong đợt đại dịch đầu tiên. Dữ liệu từ Hoa Kỳ cho thấy rằng, trong quý 2 có 1,4 triệu doanh nghiệp nhỏ đóng cửa, vĩnh viễn hoặc tạm thời và cho thấy rằng năm 2020, tổng số 4 triệu doanh nghiệp nhỏ có thể đóng cửa (Catalyst, 2020). Một cuộc khảo sát quy mô lớn trên toàn thế giới do Tổ chức Lao động Quốc tế thực hiện từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2020, cho thấy chỉ 1/5 doanh nghiệp được khảo sát hoạt động hoàn toàn tại chỗ trong thời gian này (ILO, 2020).  

Khảo sát Tương lai của Doanh nghiệp do Facebook, OECD và Ngân hàng Thế giới thu thập, cho thấy mối tương quan giữa tỷ lệ đóng cửa các DNVVN và mức độ nghiêm ngặt của các biện pháp phong tỏa của chính phủ, được đo lường bởi Chỉ số Lockdown Stringency Index của Đại học Oxford, trong đợt đầu tiên của đại dịch.

Tuy nhiên, tỷ lệ đóng cửa các DNVVN không giảm sau làn sóng đầu tiên của đại dịch và các biện pháp ngăn chặn dần dần được dỡ bỏ. Ví dụ, ở Hà Lan, số công ty bị gián đoạn hoạt động cao hơn 40% trong khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2020 so với cùng kỳ năm 2019, nhưng đặc biệt tăng mạnh sau tháng 6 năm 2020 khi các biện pháp ngăn chặn được nới lỏng (KVK, 2020), với mức đóng cửa của công ty vào năm 2020 cao hơn 20% so với năm 2019. Dữ liệu từ Hoa Kỳ cũng cho thấy tỷ lệ đóng cửa doanh nghiệp tăng trở lại sau tháng 6 năm 2020, mức đóng cửa tạm thời trở thành đóng cửa vĩnh viễn tăng lên. Tại Trung Quốc, ít nhất 3 triệu doanh nghiệp nhỏ đã đóng cửa từ tháng 1 đến tháng 11 năm 2020, mặc dù các biện pháp phong tỏa đã được dỡ bỏ vào tháng 4 năm 2020.

Mặc dù dữ liệu về việc đóng cửa doanh nghiệp vẫn chưa có đầy đủ đối với nhiều quốc gia, nhưng rõ ràng là sau hai năm kể từ khi bắt đầu đại dịch, tác động của tỷ lệ đóng cửa DNVVN là rất lớn. Tại Hoa Kỳ, số lượng doanh nghiệp nhỏ mở cửa liên tục giảm trong nửa cuối năm 2020 và con số này thấp hơn 33,6% vào tháng 1 năm 2021 so với tháng 1 năm 2020. Tại Mexico, cơ quan thống kê quốc gia INEGI đã báo cáo vào tháng 12 năm 2020 rằng hơn 1 triệu DNVVN đã đóng cửa vĩnh viễn kể từ giữa năm ngoái, chiếm 20,8% tổng số SME (Mexico News Daily, 2020). Các biện pháp phong tỏa được gia hạn ở nhiều quốc gia được áp dụng vào mùa thu năm 2020 và tiếp tục trong những tháng đầu năm 2021 tiếp tục ảnh hưởng đến tỷ lệ đóng cửa các DNVVN. Ví dụ, ở Canada, vào tháng 3 năm 2021, 35% doanh nghiệp nhỏ vẫn đóng cửa.

Mất khả năng thanh toán

Trong khi đại dịch khiến nhiều DNVVN phải ngừng hoạt động, nhưng trong hầu hết các trường hợp, điều này không dẫn đến việc gia tăng tình trạng mất khả năng thanh toán năm 2020. Số lượng các vụ phá sản trong quý I và quý II năm 2020 và bằng chứng rằng trên thực tế, tình trạng phá sản thường giảm trong giai đoạn này. Nhiều nghiên cứu dự đoán rằng từ nửa cuối năm 2020 trở đi, xu hướng phá sản này sẽ chuyển biến, với tỷ lệ vỡ nợ ngày càng tăng. Tuy nhiên, dù một số quốc gia đã chứng kiến ​​sự gia tăng đáng kể tỷ lệ phá sản (Israel, Nhật Bản, Hoa Kỳ), một năm sau đại dịch, đối với hầu hết các quốc gia, đây không phải là trường hợp phổ biến.

Ví dụ, ở Vương quốc Anh, tỷ lệ phá sản trong quý 4 năm 2020 thấp hơn 27% so với quý 4 năm 2019 và thấp hơn kể từ quý 2 năm 2020 so với bất kỳ quý nào kể từ năm 1990 (The Insolvency Service, 2021). Tại Hà Lan, số vụ phá sản vào tháng 11 năm 2020 là thấp nhất trong 20 năm và ít hơn 16% so với năm 2019, giảm liên tục trong 5 tháng liên tiếp (CBS, 2020). Tại Đức, Chỉ số Mất khả năng thanh toán đã giảm 40 điểm trong khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 8 năm 2020 (Reuters, 2020). Theo Statistics Canada, tỷ lệ vỡ nợ đã giảm 29,5% năm 2020 so với năm 2019. Tại Thụy Sĩ, hồ sơ phá sản năm 2020 thấp hơn 19% so với năm 2019 (Eckert, Mikosch và Stotz, 2020). Tại Pháp, số vụ vỡ nợ năm 2020 thấp hơn 24% so với năm 2019.

Lý do cho sự khác biệt về tỷ lệ phá sản: thứ nhất, sự khác biệt thể hiện rằng độ co giãn của khả năng mất khả năng thanh toán được gọi là độ co giãn của khả năng mất khả năng thanh toán (tỷ lệ % khả năng mất khả năng thanh toán đối với sự thay đổi 1% GDP) là khác nhau giữa các quốc gia (Atradius, 2020). Thứ hai, và có thể là quan trọng nhất, tỷ lệ phá sản giảm phản ánh các phản ứng chính sách của chính phủ đối với COVID-19: các biện pháp can thiệp của chính phủ như hoãn thuế, trả nợ và giảm lãi suất, mở rộng thời hạn trả nợ hỗ trợ công, giảm hoặc miễn phí xử lý và bảo lãnh cũng như trợ cấp lãi suất do các tổ chức bảo lãnh, đã ngăn cản hoặc trì hoãn các công ty phá sản hàng loạt. Số lượng các thủ tục phá sản có thể tăng lên một khi các kế hoạch này, và một lượng lớn thanh khoản do các chính phủ bơm vào, kết thúc; ngoài ra, các chính phủ khác nhau (ví dụ: Úc, Bỉ, Colombia, Đức, Ý, New Zealand, Bồ Đào Nha, Nga, Thụy Sĩ, Thổ Nhĩ Kỳ và Vương quốc Anh) đã thực hiện các thay đổi tạm thời về chế độ phá sản và vỡ nợ được thiết kế để cung cấp tính linh hoạt hơn cho các công ty đang phải đối mặt thiếu hụt khả năng thanh toán tạm thời, trong một số trường hợp phải tạm dừng thủ tục phá sản. Các biện pháp này bao gồm việc nâng ngưỡng giới hạn nợ chưa thanh toán để bắt đầu phá sản và thay đổi các điều kiện để nộp đơn phá sản. Ví dụ, Đức là một trong những quốc gia có tỷ lệ vỡ nợ giảm nhiều hơn trong quý 3 năm 2020 phần lớn là do luật khuyến khích các công ty tái cấu trúc thay vì nộp đơn xin vỡ nợ và luật này đã được mở rộng cho năm 2021, có thể sẽ tác động đến số lượng các vụ vỡ nợ trong tương lai gần; cuối cùng là do các biện pháp hạn chế đi lại khiến nhiều hoạt động của các tòa án kinh doanh bị dừng lại, đặc biệt khi các hoạt động không được số hóa nhiều. Điều này thường dẫn đến sự chậm trễ trong việc đăng ký chính thức các trường hợp vỡ nợ.

Mặc dù đã trải qua hơn một năm đại dịch, tỷ lệ phá sản của các DNVVN vẫn ở mức khiêm tốn, nhưng có khả năng tỷ lệ này sẽ tăng lên trong giai đoạn tới, cũng ở những quốc gia chưa xảy ra trường hợp này. Dữ liệu từ Văn phòng Thống kê Quốc gia Vương quốc Anh cho thấy gần 25% doanh nghiệp đóng cửa vào tháng 4 năm 2021 (Trung tâm Hiệu suất Kinh tế, 2021). Euler Hermes và Atradius, hai công ty bảo hiểm tín dụng, dự kiến ​​tỷ lệ vỡ nợ sẽ tăng mạnh vào năm 2021. Do đó, cuộc khủng hoảng COVID-19 có thể khiến tình trạng mất khả năng thanh toán tăng đột biến và điều tồi tệ nhất có thể sẽ xảy ra.